Cảng biển không chỉ là nơi đón đưa hàng hóa và tàu thuyền mà còn là một phần quan trọng của định danh địa lý và văn hóa. Việc đặt tên cho cảng biển không chỉ đơn thuần là việc gắn kết một cái tên mà còn mang theo những ý nghĩa sâu sắc và ảnh hưởng lớn đến cộng đồng và du khách.
Nguyên tắc đặt tên cảng biển
Theo quy định của Điều 77 trong Bộ Luật Hàng Hải Việt Nam năm 2015 (được sửa đổi bởi Điều 3 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật liên quan đến Quy Hoạch năm 2018), các quy định về cảng biển, cảng dầu khí ngoài khơi, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu vực nước, và vùng nước cần phải có tên được xác định theo các nguyên tắc sau đây:
- Các cảng biển, cảng dầu khí ngoài khơi, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu vực nước, và vùng nước sẽ được đặt tên khi lập kế hoạch, thực hiện dự án đầu tư xây dựng, và công bố khi sử dụng theo đề xuất của chủ đầu tư, cơ quan, hoặc tổ chức liên quan.
- Không được đặt tên trùng lặp hoặc gây nhầm lẫn với tên đã được công bố của các cảng biển, cảng dầu khí ngoài khơi, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu vực nước, và vùng nước, cũng như không được đặt tên không phù hợp với chức năng hoặc tên gọi của chúng.
- Không được sử dụng tên của các cơ quan nhà nước, tổ chức lực lượng vũ trang, hay các tổ chức chính trị – xã hội để đặt tên cho toàn bộ hoặc một phần của cảng biển, cảng dầu khí ngoài khơi, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước, trừ khi có sự đồng ý của cơ quan, tổ chức tương ứng.
- Cấm sử dụng từ ngữ, biểu tượng vi phạm các giá trị truyền thống văn hóa, lịch sử, đạo đức và phong tục của dân tộc để đặt tên.
Theo Nghị định 58/2017/NĐ-CP, cũng có các quy định sau:
- Các cảng biển, cảng dầu khí ngoài khơi, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước phải được đặt tên theo nguyên tắc được quy định bởi pháp luật.
- Tên của các cảng biển, cảng dầu khí ngoài khơi, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước cần viết bằng tiếng Việt, có thể kèm theo tên tiếng Anh, và bắt đầu với các cụm từ như “Bến cảng”, “Cầu cảng”, “Bến phao”, “Khu”, “Vùng”, kèm theo tên riêng của công trình.
Dựa theo Nghị định 58/2017/NĐ-CP, việc đặt tên hay thay đổi tên của cảng biển được quy định cụ thể như sau trong Hướng dẫn Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015 về quản lý hoạt động vận tải:
- Quy trình đặt tên cảng biển, cảng dầu khí ngoài khơi, bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước được thực hiện khi cơ quan có thẩm quyền công bố mở cảng biển, cảng dầu khí ngoài khơi, bến cảng, cầu cảng, bến phao và khu nước, vùng nước dựa trên đề xuất từ chủ đầu tư hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan.
- Quyền thẩm quyền quyết định việc đổi tên cảng biển, cảng dầu khí ngoài khơi được phân chia cụ thể như sau:
- Bộ Giao thông Vận tải quyết định việc đổi tên cảng biển và cảng dầu khí ngoài khơi;
- Cục Hàng hải Việt Nam quyết định việc đổi tên bến cảng, cầu cảng, bến phao và khu nước, vùng nước.
- Thủ tục đổi tên cảng biển, bến cảng, cầu cảng, bến phao và khu nước, vùng nước, cảng dầu khí ngoài khơi đã được công bố như sau:
- Chủ đầu tư hoặc người khai thác gửi trực tiếp hoặc thông qua các hình thức khác phù hợp văn bản đề nghị đổi tên cảng biển theo quy định đến Cục Hàng hải Việt Nam;
- Trong khoảng thời gian 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định, Cục Hàng hải Việt Nam có văn bản trình Bộ Giao thông Vận tải xem xét quyết định đối với đề nghị đổi tên cảng biển hoặc cảng dầu khí ngoài khơi; quyết định đổi tên bến cảng, cầu cảng, bến phao, khu nước, vùng nước.
- Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản từ Cục Hàng hải Việt Nam, Bộ Giao thông Vận tải xem xét và ra quyết định đổi tên cảng biển, cảng dầu khí ngoài khơi. Trong trường hợp Bộ Giao thông Vận tải không chấp thuận, Bộ Giao thông Vận tải sẽ thông báo cho Cục Hàng hải Việt Nam để có văn bản thông báo cho chủ đầu tư hoặc người khai thác cảng biển để đặt lại tên cho phù hợp.